Tuesday 29 September 2015

Các nghiên cứu về nông lâm kết hợp ở Việt Nam

Các nghiên cứu về nông lâm kết hợp ở Việt Nam


1. Lịch sử nghiên cứu về nông lâm kết hợp ở Việt Nam

Người miền núi trước đây canh tác chủ yếu theo hình thức du canh, thường có hai hình thức du canh:

Các nghiên cứu về nông lâm kết hợp trên thế giới
Những lợi ích của hệ thống nông lâm kết hợp
Đặc điểm của các hệ thống nông lâm kết hợp phù hợp
Các yếu tố như điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của nông lâm kết hợp trên quy mô toàn cầu
Nhu cầu và thách thức đối với phát triển bền vững ở nông thôn miền núi
- Canh tác nương rẫy không quay: các mô hình canh tác liên tục vào đám đông chuyển, cho đến năng suất cây trồng giảm đến mức thấp nhất, thậm chí không được thu hoạch, người dân phải tìm đất mới. Loại này thường gắn liền với du canh du cư môi trường đất tàn phá mạnh mẽ.

- Du canh quay vòng: các loại canh, bỏ hoang 4-5 năm, cho đến khả năng sinh sản được khôi phục, trở lại canh tác trên mảnh đất đó. Hiện nay, do tăng trưởng dân số nhanh chóng trên đất canh tác trở lại đó là gốc cho thời gian bỏ hoang thường từ 7-10 năm, bây giờ chỉ có 3-4 năm thậm chí nếu chỉ có 1 hoặc 2 năm. Do đó, khả năng sinh sản đã được khôi phục đầy đủ và ngày càng bị xói mòn. Do sự bất hợp lý trong canh tác nương rẫy nên bề mặt đất bị mất mỗi năm 1,5-4 cm [97].

Tiềm năng đất đai và đồi khả năng ở nước ta là rất lớn, nhưng sản xuất trên sườn núi với nhiều khó khăn, sản xuất tại các vùng đồng bằng, các giới hạn đầu tiên phải kể đến là dốc dễ bị xói mòn mòn của mưa, thoát nước dễ bị hạn hán bằng rất nhanh. Bên cạnh đó, giao thông không thuận tiện, thiếu cơ sở hạ tầng, cùng với trình độ học vấn thấp với các mô hình canh tác lạc hậu ... tất cả những điều đó đã gây ra đói nghèo ở các khu vực này. Đây không phải là đồng bào REO cao, với 86,4% dân số đến vùng núi du mục, du mục chuyển đổi trồng trọt một cách tự nhiên từ nơi này đến nơi khác, phương pháp canh tác, phong cách đơn giản "xỏ hạt" năng suất cây trồng rất thấp, rửa trôi đất, xói mòn xuống cấp nghiêm trọng để lại như những nơi khác, cây cối được cắt giảm liên tục. Xa quá nhiều nơi không còn rừng chỉ còn lại toàn đất trống đồi trọc và cỏ dại cắt sim mua đá [53]. Tuy nhiên cho đến nay canh tác nương rẫy của đồng bào vùng cao vẫn chưa kết thúc khá như vậy
nó được kết hợp với tập quán canh tác truyền thống của người dân địa phương [50].

Sau một thời gian theo kiểu du canh trồng dài, du cư như xói mòn đất, năng suất cây trồng, vật nuôi giảm mạnh, các nông lâm kết hợp đã từng bước phát triển để giảm thiểu những hậu quả.

Nghiên cứu về nông lâm kết hợp ở nước ta bắt đầu phát triển từ những năm 1960 trở lại đây. Theo ông Nguyễn Trọng Hà, 1966 [22] tác phẩm của Nguyễn Ngọc Bình, Nguyễn Quí Khai, Cao Văn Minh, Nguyễn Xuân Quát, Bùi vực năm 1964 xây dựng thí nghiệm chống xói mòn ở Cầu Hai - Phú Thọ. Tôn Gia Huyên và xêzi (1965) (dt Nguyễn Văn Tiến, 1975) [83] đặt thí nghiệm và xây dựng mô hình chống xói mòn tại cầu sông State Farm Village North Hills - Bắc Thái đã cho kết quả tích cực.

Năm 1983 - 1985, Nguyễn Văn Tiến (1988) [82] thí nghiệm với hệ sắn xen với đá xanh Kỹ thuật hàng rào Essence kết hợp phân khoáng hợp lý trên mái đất nghèo dinh dưỡng. Kết quả cho thấy rằng ngoài việc thu thập sản phẩm nhiều hơn Lac 5,3-6,4 kg / ha và đã đạt năng suất 12,1-16,6 tấn / ha, lượng đất xói mòn giảm từ 2, 8-4,5 lần so với trồng sắn thuần.

Thái Phiên và xêzi (1986) [53] tóm tắt kết quả nghiên cứu, "Trong năm năm của chương trình cho giai đoạn 1980-1985" trên "Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong công tác cải tạo và chống xói mòn đất mới khai hoang" có các biện pháp thiết lập để sử dụng, bảo vệ, cải tạo đất đỏ vàng, khai hoang và độ dốc của các địa phương trên toàn quốc. Nhiều mô hình về bảo vệ đất chống xói mòn trên đất với cơ cấu cây trồng chính được thực hiện và áp dụng trong sản xuất.

Hiện trạng môi trường và quản lý tài nguyên rừng Việt Nam đặt dưới áp lực nặng nề. Hệ sinh thái Việt Nam bị gián đoạn, tài nguyên đất rừng, đất và nước bị suy thoái nghiêm trọng, nguồn sống của đồng bào vùng cao vẫn chủ yếu dựa vào phá rừng và đốt cháy. Trong 9 triệu người dân tộc thiểu số, đã có 2.879.685 người trong 482.612 hộ gia đình sống trong các phương pháp canh tác vùng cao. Mà Tây có 7%, 16% Nùng, Thái 45%, không bao gồm người Kinh còn lại tất cả các dân tộc thiểu số khác sống trong canh tác vùng cao (dt Lê Trọng Cúc và Cs, 2001) [10].

Ở nước ta chiếm dốc lớn (72% diện tích đất là đất canh tác có độ dốc, vì vậy cần có một cách sử dụng và bảo vệ đất dốc trên quan điểm bền vững. Nhiều tác giả đã nghiên cứu vấn đề này và đưa ra một số biện pháp kỹ thuật như sau :

- Trên dốc dưới 120 sử dụng các biện pháp nông nghiệp: trồng xen, trồng gối ...

- Trên dốc từ 120-250 có thể sử dụng các biện pháp: Che với cách thức thực vật nông lâm kết hợp; Che với vật không sống như rơm, tấm nhựa, nylon; Các biện pháp công trình như thang kệ, mương dốc ...

- Trên độ dốc trên 250 sử dụng các biện pháp lâm nghiệp [40], [44].

Nhưng trong thực tế do áp lực về dân số của nước ta, tỷ lệ đất canh tác / đầu người thấp, nhiều nông dân trồng nơi nông nghiệp độc canh ngay trên dốc trên 250. Vì vậy, nông lâm kết hợp trồng trọt là giải pháp tốt nhất cho vùng cao canh tác bền vững trong giai đoạn hiện nay ở nước ta [90].

Các tác giả Trần Ngọc Ngoạn và xêzi (1999) [49] cho biết: Nông lâm kết hợp là thuật ngữ dùng để chỉ các hệ thống sử dụng đất, trong đó các loài động thực vật trong nông nghiệp (cây trồng, cây cối, vật nuôi ...) được bố trí kết hợp với vòng xoay không gian rừng hoặc cây trồng và sự tương tác giữa thực vật và động vật trong nông nghiệp và lâm nghiệp trên cả hai mặt sinh thái và kinh tế.

Theo Buch, M (1997) [105] và hỗ trợ các chương trình lâm nghiệp xã hội ở Việt Nam (2002) [5], các phương pháp hiện tại của nghiên cứu và phát triển nông lâm kết hợp khoa học ở nước ta được các nhà khoa học đưa ra theo hai xu hướng:

Xu hướng 1: Gọi cải tiến tiềm năng với chi phí cao. Theo xu hướng này sẽ cải thiện giống các dự án đầu tư tiềm năng sinh học cao và gia tăng đầu vào tiềm năng đáp ứng để đạt được sản lượng cao hơn. Xu hướng này là nhược điểm không bền vững về sự ổn định hệ thống, đầu tư cao là không phù hợp với điều kiện nông dân vùng cao có thu nhập thấp, mặc dù nó có lợi thế của việc tạo ra một động lực cho phát triển kinh tế phát triển có hiệu quả bởi thu nhập cao.

Xu hướng 2: Gọi cải tiến tiềm năng với chi phí thấp. Theo đó xu hướng nông lâm kết hợp sử dụng tối ưu các nguồn lực sẵn có tại địa phương bằng các kết hợp khác nhau giữa các hệ thống canh tác các loại cây trồng, vật nuôi, đất, nước, khí hậu, con người, từ đó họ sẽ bổ sung cho nhau để tạo ra các tác dụng hiệp đồng lớn nhất với mục đích:

Để đảm bảo tính bền vững; Tỷ lệ rủi ro thấp; Giá thấp; Khả năng thích nghi; Làm đơn, làm hồ sơ; Tại can thiệp; Được chấp nhận cả về tâm lý xã hội. Nông lâm kết hợp như lịch sử phát triển ở nước ta đã dần dần thay đổi theo từng giai đoạn. Hôm nay nó được ứng dụng rộng rãi trong tất cả các khu vực để góp phần sử dụng đất bền vững và tăng lợi ích kinh tế cho người dân của những ngọn đồi.

2. Phân loại nông lâm kết hợp ở Việt Nam

Tại Việt Nam trên cơ sở kết quả của hoạt động nghiên cứu nông lâm kết hợp, một số tác giả như Hoàng Hòe, Nguyễn Đình Hương, Nguyễn Ngọc Bình canh tác mô-đun nông lâm kết hợp ở nước ta thành 8 hệ thống gọi chính là "hệ thống canh tác" là cao nhất, theo hệ thống canh tác "phương pháp" hay "phong cách" nuôi và cuối cùng là "mô hình" Nông lâm kết hợp ở hộ gia đình [87]. Theo hệ thống phân loại này nuôi nông lâm kết hợp nguyên lý ở Việt Nam được chia thành 8-Generation:

Liên hệ nông - lâm nghiệp; Hệ thống canh tác và lâm nghiệp - chăn nuôi; Liên hệ nông - lâm nghiệp - chăn nuôi; Hệ thống gỗ đa dụng; Liên hệ lâm - thủy sản; Liên hệ nông nghiệp - lâm nghiệp - thủy sản; Liên hệ ong - gỗ; Liên hệ nông - lâm - ngư nghiệp - gia súc [87], [93], [97]. Hệ thống này được chia thành 27 loại canh / hệ thống khác nhau trong thành phần chính của hệ thống trong từng vùng sinh thái, các hộ gia đình sản xuất mô hình nông lâm kết hợp được gọi là nông lâm kết hợp

Các tác giả đã thiết lập mô hình nông lâm kết hợp và các bộ phận vùng sản xuất nông lâm kết hợp điển hình chính, trên cơ sở của các vùng địa lý tự nhiên để xác định khả năng thực hiện trong từng khu vực.

- Vùng Ven biển: loài cây ngập mặn, phèn, điện thoại di động chống cát.

- Delta: hệ thống như VAC (vườn - ao - chuồng), trồng cây phân tán, bảo vệ vành đai xanh.

- Trong các đồi núi và trung du: Các VR hệ thống (vườn - rừng), VAC (vườn - ao - chuồng), RVC (rừng - vườn - chuồng), kết hợp trồng rừng nuôi ong cho mật ong (RO), RVCRg (rừng - vườn - chuồng - trang trại), ...

- Các vùng núi cao dưới chăn thả rừng, ruộng bậc thang với rừng phòng hộ đầu nguồn [87], [97].

Phân loại tổng thể của hệ thống nông lâm kết hợp ở nước ta và trong thế giới của thiên nhiên tạo nên hệ thống này là chính xác như nhau, cũng trước khi phân loại nông lâm kết hợp tại các nhà khoa học Việt Nam đã áp dụng các phương pháp phân loại của thế giới nhưng rất cụ thể. Điều đó cho phép chúng ta áp dụng một cách linh hoạt hơn các kết quả nghiên cứu trên các hệ thống nông lâm kết hợp ứng dụng trên toàn thế giới trong điều kiện sinh thái của từng vùng tại Việt Nam.

3. Thực tế sản xuất nông lâm kết hợp ở Việt Nam

Như một kết quả của việc kiểm kê của Bộ NN & PTNT tài nguyên rừng quốc gia, năm 2005, ngày như quỹ đất lâm nghiệp 31/12/2005 của đất nước là 19.028.690 ha, chiếm hơn một nửa diện tích tự nhiên. Trong đó đất rừng là 12.616.700, phủ sóng toàn quốc đạt 37%, dự kiến từ năm 1999 đến nay chúng tôi đã nỗ lực trồng rừng. Diện tích đất trống đồi núi trọc vẫn còn 6.411.990 ha [4].

Đất nông nghiệp hơn 7,3 triệu ha, trong đó cây hàng năm là 5,6 triệu ha, cây lâu năm và 1,4 triệu ha đất có mặt nước sử dụng cho nông nghiệp là 0.273.000 ha. Như vậy, tỷ lệ sử dụng đất thấp, chiếm đất nông nghiệp chỉ chiếm 21% tổng diện tích đất tự nhiên và cần lưu ý rằng nước ta có hơn 10 triệu ha dốc xuống cấp nghiêm trọng. Tình hình cho thấy quỹ đất của nước ta là quá ít, và đất đã được sử dụng ít hơn nhiều. Hơn nữa, chúng tôi có 75% dân số sống bằng nghề nông. Bình quân đầu người có đất nông nghiệp là 0,108 ha / người (trong khi mức trung bình là 1,2 ha của thế giới / người) [90]. Hiện nay tại Việt Nam Nông lâm kết hợp đang phát triển và nó thực sự mở ra những hướng mới trong sản xuất nông nghiệp - lâm nghiệp nhà nước. Các hệ thống nông lâm kết hợp hiện có tại Việt Nam như: VAC (vườn - ao - chuồng), VR (vườn - rừng), RVCA (Rừng - vườn - ao - chuồng), RVCRg (rừng - vườn - chuồng - nông nghiệp), ong R- ( rừng - Bee) ... được bảo vệ ngày càng hiệu quả của đất, nước, tăng năng suất cây trồng góp phần ổn định đời sống của người dân miền núi, nhiều gia đình đã vươn lên giàu với nông lâm kết hợp ra.

Trong sự phát triển cộng đồng của CARE Quốc tế tại Việt Nam Lục Ngạn với UBND huyện, quản lý rừng phòng hộ tỉnh Hà Bắc được phát triển trên một số canh tác trên đất dốc, để khai thác và sử dụng tài nguyên đất hợp lý có hiệu quả, thúc đẩy sản xuất nông-lâm nghiệp. Phổ biến rộng rãi các hệ thống canh tác cho nông dân với mô hình nông lâm kết hợp, màu xanh lá cây có rào chắn cho hiệu suất tốt nhất của:

Với hơn 200 độ dốc khoảng cách là hàng rào xanh tốt nhất dưới 5m.

- Với ít hơn 200, độ dốc của các khoảng cách tốt nhất là 5 - 7m.

- Với khí rào Essence kép hiệu quả nhất có thể.

Các mô hình được lựa chọn là tổng hợp hầu hết các loại cây trồng thích hợp là:

- Vải + Đậu, đậu băng Essence + gas.

- Ong + trái cây + rừng tự nhiên.

Những mô hình này mang lại lợi ích kinh tế lớn, tăng thu nhập cho các hộ gia đình nghèo [78].

Dựa trên các cuộc khảo sát và thử nghiệm một số mô hình nông lâm kết hợp trên đất đồi núi ở tỉnh Lạng Sơn, Vũ Linh Biet năm 1995 đã cho kết quả của một số mô hình phổ biến và có hiệu quả cao trong lĩnh vực này là bổ sung - trà dưới bóng mát của rừng tự nhiên; Quýt - tái sinh rừng; Cà phê - Chè - Pineapple - trồng; Cà phê - Vải - Trà - tái sinh tự nhiên của rừng; Mận - Red - tái sinh tự nhiên của rừng; Cà phê - Chuối - trồng [41].

Năm 1995 - 1996 tại huyện Na Rì - Bắc Kạn, Trường Đại học Nông Lâm chủ trì dự án "Xây dựng mô hình ứng dụng khoa học và công nghệ để góp phần phát triển nông thôn ổn định ở khu vực miền núi". Dự án đã thiết kế 26 mô hình SALT giống trái cây đặt và giá trị kinh tế cao đặc sản như vải, nhãn, đỏ không hạt, mận, cam, quýt, cây Hồi giáo xen với cây họ đậu và cây lương thực. Kết quả cho thấy rằng Vải trái cây và Nhãn tỷ lệ sống 55%, tỷ lệ sống cây khác 80-83% và tiếp tục tăng trưởng và phát triển. Kết quả đánh giá sơ bộ của nông nghiệp nông lâm kết hợp thành công, chuyển giao tiến bộ khoa học và kỹ thuật bằng cách xây dựng mô hình trình diễn là cách tiếp cận đúng cần được mở rộng.

Trong Đoan Hùng - Phú Thọ mô hình nông lâm kết hợp các được xây dựng là: Fat - Làm thế nào đồi SanDien; Fat - Thong san đồi điện báo; Fat - Lạc; Trang sắn Eucalyptus - Costa đồi điện báo khi-; Cập nhật - sắn; Cập nhật - Fat - Rice (Lạc) - Tea - Engineering Essence - - Trâu Mường chỉ lá. Các mô hình vào việc hạn chế xói mòn và tác động tích cực đến nền kinh tế [29].

Nguyễn Trần Trọng, 1996 [80] Trong khi các nghiên cứu về hệ thống cây trồng mô hình nông lâm kết hợp đã cho kết hợp trong các hệ sinh thái vùng cao như sau:

- Bảo vệ thực vật: Mường đen, keo hàng rào, cây keo, phi lao mía, Mít.

- Cây lâu năm như chè, cà phê; cây công nghiệp ngắn ngày như Bliss, mía, đậu tương; cây lương thực, thực phẩm như lúa, Lúa, ngô, cây có củ, rau quả. Các cây ngắn ngày thường trồng xen giữa các hàng cây lâu năm còn non hay trồng ở chân đồi băng.

Từ năm 1990, chương trình chuyển giao công nghệ nuôi trồng trên đất dốc SALT được triển khai tại Việt Nam, chương trình đã được xây dựng nhiều mô hình, nông dân chấp nhận, thu nhập từ nông nghiệp cũng là SALT Advanced. Các kết quả của thí nghiệm được xác nhận, SALT canh tác mô hình giảm đáng kể lớp đất mặt bị xói mòn, ngay cả trong những năm đầu tiên được giới hạn 50-57% của sự xói mòn đất [24].

Trong việc phát triển nền kinh tế lâm phong trào hiện nay, các địa phương đã có những nỗ lực để tìm ra các biện pháp canh tác phù hợp và tiến hành sản xuất đất bảo vệ môi trường phương tiện và môi trường sinh thái, nuôi nhiều mô hình tiên tiến đã được giới thiệu và áp dụng với kết quả tốt. Sử dụng hợp lý tài nguyên đất dốc giữa kiến thức cổ xưa của người dân địa phương với công nghệ tiên tiến trong các hình thức nông lâm kết hợp là một phương pháp canh tác nên có chiến lược phổ quát rộng rãi cho các núi đồi [73], [89].

Đặng Văn Minh, (2005) [46] Trong khi các nghiên cứu về ảnh hưởng tới chất lượng đất của các mô hình sản xuất trang trại nông lâm kết hợp trong thực tế trung ương, thực nghiệm, Đại học Nông nghiệp - Thái Nguyên đã kết luận: nông nghiệp trên đất dốc theo mô hình trang trại nông lâm kết hợp có một ảnh hưởng tích cực đến việc duy trì chất lượng đất.

Đặng Kim Vui và Cs, 2005 [96] nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật cải thiện một số mô hình huyện Nông lâm Võ Chew - Thành phố Thái Nguyên đã chỉ ra: để tăng năng suất cây trồng và làm cho canh tác bảo vệ Durable trên sườn núi, ngoài việc lựa chọn hệ thống canh tác thích hợp nên được trồng xen cây như cải tạo khí Essence, đen Mường, kéo đầu của bạn.

Do đó nông lâm kết hợp được tiến hành không chỉ để cải thiện năng suất cho nông nghiệp - lâm nghiệp, nhưng cũng tạo ra một môi trường ổn định cho từng vùng sinh thái.

4. Một số chính sách đổi mới của Nhà nước Nông nghiệp và phát triển lâm nghiệp

Cùng với những định hướng mới trong việc lập kế hoạch sử dụng đất ở nước ta trong giai đoạn mới, chính sách "đổi mới" của Đảng và Nhà nước đã được ban hành, góp phần thể chế hóa đường lối của Đảng Cộng sản là Việt Nam trong giai đoạn phát triển kinh tế của sự đổi mới, xây dựng các nền kinh tế thành phần hàng hóa, phát triển theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.

Nghị định 02 / CP về 15/01/1994 [75] của Chính phủ ban hành "Quy định về việc giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp"

Nghị định 01 / CP về 1995/01/04 [76] cung cấp cho việc giao khoán đất sử dụng và đất cho các mục đích NLN trong các doanh nghiệp nhà nước

Nghị định 163 / CP ngày 16/11/1999 [77] về giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định, mục đích lâm nghiệp lâu dài.

Nghị định 64 / CP ban hành ngày 1993/03/27 [74] trong đó đề cập đến vai trò của các xã trong việc giao đất nông nghiệp tại các Điều 8, 12 và 15 của Quyết định về việc giao đất nông nghiệp.

Ngày 15/04/1991, Tổng cục [88] đã ban hành Thông tư số 106 / QHKT hướng dẫn lập kế hoạch sử dụng đất xã. Thông tư này đề cập đến quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp.

Ngày 1991/01/06 Hội đồng Chủ tịch của Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) đã ban hành Quyết định số 364 / CT [6] về việc giải quyết tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới hành chính tỉnh, huyện xã.

10 tháng mười hai năm 2003, Chủ tịch nước đã ký Nghị định số 23/2003 / L / CTN công bố Luật đất đai [42]. Điều 13 của Luật này phân loại đất thành 3 nhóm là: đất nông nghiệp, đất nông nghiệp và đất chưa sử dụng. Các Điều 50, 51 đối tượng quy định được cấp giấy chứng nhận quyền cho các tổ chức và gia đình trong và ngoài nước sử dụng.

Rõ ràng, chính sách trong quản lý sử dụng đất nông - lâm nghiệp của Đảng ta đã được đem lại cho mọi người một cơ chế mở để đảm bảo kế hoạch đầu tư phát triển sản xuất đặc biệt là xây dựng các hệ thống nông lâm nghiệp, tạo cơ hội phát triển kinh tế và gia đình xã hội, góp phần nâng cao đời sống đồi của người dân .

Các nghiên cứu về nông lâm kết hợp ở Việt Nam

No comments:

Post a Comment